Ông Bàn Văn Tiến.
Cách đánh thức “kho báu” trăm tuổi
Lật mở một trong số những cuốn sách cổ người Dao có niên đại lên đến 100 đến 200 năm, được ông Bàn Văn Tiến gói vào từng mảnh vải đỏ rồi đặt cẩn thận vào hòm gỗ. Ông Tiến bộc bạch, những cuốn sách cổ này là của cha ông để lại. Các cụ bảo, đó là “báu vật” tổ tiên lưu lại cho con cháu qua bao đời. Nhờ có chữ viết riêng mà từ xa xưa, dân tộc Dao đã có hệ thống nguồn tư liệu quý giá với những cuốn văn tự có giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa. Trong đó có 2 bộ sách lớn nhất là: Bộ sách giáo khoa, dùng cho việc dạy học gồm 15 cuốn, chia thành 3 phần với nội dung truyền dạy về lịch sử dân tộc, giáo dục đạo đức, triết lý nhân sinh. Theo quan niệm của người Dao thì vạn vật đều có linh hồn, tồn tại các vị thần gió, thần mưa, thần trông coi lúa gạo, hoa màu và chăn nuôi... Do đó, người Dao có nhiều nghi lễ, như: cúng mưa, cúng thóc giống, cúng hồn gia súc, cúng thần rừng, cấp sắc... Những nghi lễ đó được lưu giữ trong những cuốn sách cổ nhưng phải là những người biết đọc chữ Nôm Dao mới có thể thực hiện được.
Đau đáu với chữ viết dân tộc mình, thế nên ông Tiến tự giao cho mình một nhiệm vụ sưu tầm tìm hiểu văn hóa nguồn cội từ những cuốn sách cổ vì một khát khao “neo giữ” chữ Nôm Dao ở lại trong cuộc sống tất bật ngày hôm nay.
Và “như việc phải làm”, ông tự giao cho mình một nhiệm vụ sưu tầm tìm hiểu văn hóa nguồn cội từ những cuốn sách cổ. Ông “băng rừng lội suối” gặp gỡ những già làng, trưởng bản, người cao tuổi để sưu tầm sách cổ. Ngày đó, công việc sưu tầm hết sức khó khăn và tỉ mỉ. Vì đây là các công trình dân gian truyền miệng cho nên phải chép lại theo trí nhớ người già. Có những cuốn sách bằng tiếng Dao, phải đi mất mấy ngày trời thuyết phục rồi thương lượng “đổi sách lấy gạo”. Nhiều cuốn cũ nát có nguy cơ mất hết thông tin, ông đã tỉ mỉ chép lại.
Ông Bàn Văn Tiến (ngoài cùng bên phải) dạy chữ Nôm Dao cho các học trò.
Ông Bàn Văn Tiến nói rằng: “nếu chỉ tính về số lượng sách thì tôi là người khá giả đấy! Kho sách hàng trăm năm nay tích lũy kho tàng tri thức của bao đời, quý lắm, giá trị lắm! Nhưng có những sách không phải ai cũng được xem, phải là người một lòng hướng về tổ tiên, hiểu phong tục văn hóa để thực hiện nhiều lễ nghi thì mới được tổ tiên cho phép”.
Do đó để nhiều người hiểu hơn về văn hóa người Dao, ông đã tỉ mỉ dịch ra tiếng Việt. Ông bảo, kho tàng thơ ca, truyện cổ, lời Páo dung... của người Dao là “kho báu”, mà kho báu càng nhiều người biết đến, yêu thích nó thì càng quý, càng có giá trị. Vậy nên ông nhiệt tình dịch ra tiếng Việt để cho ai ai cũng có thể hiểu và trân trọng văn hóa dân tộc mình. Đó là cách mà ông đánh thức “kho báu” trăm tuổi của người Dao.
“Slay tỉa” truyền văn hóa Dao
Ông Bàn Văn Tiến là “của hiếm” của bản. Ông là người đầu tiên của bản biết chữ, đảng viên đầu tiên đảm nhận nhiều chức vụ từ đại biểu hội đồng nhân dân xã, chủ tịch UBND xã, bí thư Đảng ủy xã... Dù ở cương vị nào ông vẫn hết lòng vì việc làng, việc bản. Và khi về hưu ông vẫn không cho mình ngơi nghỉ vẫn trọn lòng gắn bó văn hóa Dao.
Ông là một “Slay tỉa” (nghĩa là sư thầy hay còn gọi là thầy tào). Ông là đời thứ 23 làm thầy Tào của dòng tộc họ Bàn. Ông tự hào nói rằng, nhiệm vụ của thầy Tào là thực hiện các lễ cúng là để cầu mong những điều tốt đẹp đến gia chủ, cộng đồng, thôn, bản; hướng con người đến những điều tốt đẹp và luôn nhắc nhở con cháu không bao giờ quên tổ tiên, nguồn cội. Điều ông trăn trở đó là làm như thế nào để con cháu người Dao biết được chữ viết người Dao. Để làm gương ông dạy các con cháu trong nhà, yêu cầu con cháu không chỉ biết nói tiếng Dao mà phải biết chữ Nôm Dao. Con trai ông là Bàn Minh Lâm và cháu là Bàn Kim Duy giờ đây đều là những người am hiểu văn hóa Dao, biết chữ Dao, thuần thục các nghi thức nghi lễ.
Anh Bàn Kim Duy chia sẻ: “ngay từ khi còn bé, tôi đã theo chân ông nội để tham dự các nghi lễ, học chữ Nôm Dao. Được học tôi càng thấy chữ của người Dao mình rất hay. Đây là kho tàng kiến thức để sau này còn truyền dạy cho con cháu. Tôi được ông nội đồng tình, khuyến khích việc giới thiệu chữ viết lên internet, tham gia mạng xã hội để giao lưu học hỏi cộng đồng người Dao trong nước”.
Sách cổ của ông Bàn Văn Tiến.
Nhờ cách giảng dạy dễ hiểu, nhiệt tình mà nhiều học trò đến theo ông học chữ, học thực hành các nghi lễ. Nhiều người đã trở thành nghệ nhân, thầy cúng cao tay, am hiểu văn hóa Dao. Nghệ nhân dân gian Chu Tuần Ngân, thôn Bản Pình, xã Trung Minh chia sẻ: “Khi còn trẻ, thầy Tiến là người dạy chữ và hướng dẫn tôi thực hành các nghi lễ, thầy am hiểu văn hóa Dao và luôn nhiệt tình truyền nghề”.
Không chỉ tâm huyết với văn hóa dân tộc, ông còn là người tích cực vận động người dân thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang. Nhiều năm qua, ông Tiến đã vận động các thầy tào, thầy cúng chủ động cắt bỏ các lễ nghi rườm rà, rút gọn thời lượng thực hiện các nghi lễ để tiết kiệm chi phí, thời gian cho bà con. Dần dà, các nghi thức ngắn gọn trở nên quen thuộc.
Trước đây, đám cưới mất tới 3 ngày 3 đêm thì giờ chỉ còn 2 ngày 1 đêm; lễ cấp sắc trước phải mất tới 7 ngày 7 đêm giờ chỉ còn 2 ngày 1 đêm. Còn các thủ tục thách cưới cũng chỉ là tượng trưng để nhắc nhở con cháu giá trị trong hôn nhân.
Khi nhắc đến ông Bàn Văn Tiến nhiều người ở các xã lân cận vẫn luôn nói về ông là một người am hiểu, đam mê văn hóa Dao. Không chỉ viết chữ đẹp, hiểu nhiều nghi lễ, phong tục tập quán mà ông còn hát Páo dung rất hay. Khi còn trẻ, ông và người vợ của mình là bà Lý Thị Xoan là đôi vợ chồng văn nghệ của bản làng. Cả hai đều hát Páo dung hay, thuộc nhiều truyện cổ, thơ cổ của người Dao. Hiện nay ông Tiến tích cực sáng tác, viết lời mới cho làn điệu Páo dung cho Đội văn nghệ của xã đi tham gia biểu diễn nhiều nơi trong tỉnh. Với ông, đó là niềm vui và niềm hạnh phúc khi nhìn thấy những người trẻ yêu thích, đón nhận giá trị văn hóa cội nguồn.
Gửi phản hồi
In bài viết